Nghĩ về phương diện thế tục trong sáng tạo và cảm nhận thơ thiền
- Thứ ba - 07/01/2020 16:20
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Lê Thị Thanh Tâm
ĐHKHXH&NV
ĐHQG TP HCM
Chúng ta cùng bắt đầu từ ý tưởng này: tâm bất sinh và quan hệ của nó với cảm hứng sáng tạo trong thơ thiền.
Tâm bất sinh là một thiền ngữ. Hệ thống thiền ngữ gắn liền với các bối cảnh tu tập điển hình, những nhân tố điển hình (đạo sư, thiền sư, thiền sinh), trường hợp đắc ngộ điển hình. Thiền ngữ tâm bất sinh trong bài viết này được hiểu như là một trạng thái dừng lại mọi suy nghĩ hỗn tạp, trở về thanh lắng trong tinh thần của người tu thiền. Nói khái quát hơn, tâm bất sinh là nguyên tắc trải nghiệm nhất thiết có của những tu sĩ học Phật thành đạo.
Chính bởi nội hàm của tâm bất sinh mà người đọc thơ thiền hoặc nói chung là thơ ca có màu sắc Phật giáo, thiền học, thường có cảm giác (hoặc hình dung, tưởng tượng rằng) thơ thiền hẳn phải “ngưng đọng” tình cảm rất nhiều, đến mức “không có”. Bất sinh, thì sao còn nói được tới cảm hứng, giai hứng giai thú…? Kỳ thực, khi tiếp xúc loại thơ gần với cửa chùa hơn thế gian này, người đọc vẫn có thể sống trải nhiều cảm xúc khó tả, suy tư nhiều lẽ, kể cả…vui, buồn. Thậm chí vui, buồn rất sâu sắc. Điều đó là rõ ràng. Vấn đề nằm ở chỗ, vì sao xuất phát điểm là một nguyên tắc tâm linh của tôn giáo, vốn “tận diệt” mọi niềm tham ái luyến đời, nhưng sức lan tỏa của thơ thiền lại đi xa hơn xuất phát điểm ấy rất nhiều, đến nỗi gần như… ngược lại. Tình trạng này rất giống với mối quan hệ giữa sự thật thiền tịch và sự thật tôn chỉ thiền (thiền tịch “nhiều lời” vô kể, mà tôn chỉ tổ sư lại rất mực đơn sơ: “Bất lập văn tự”).
Tâm bất sinh đề cập ở đây cũng không phải là một trạng thái giác ngộ vĩnh viễn. Không có lý do gì để cho rằng tất cả những bài thơ thiền đều xuất phát từ tâm bất sinh của thiền giả-thi nhân, rằng chỉ những ai đạt đạo mới làm được thơ thiền. Tuy nhiên, tâm bất sinh được chọn trong thế đối trọng với cảm hứng sáng tác thơ ca là một điều có thể chấp nhận được, với ý nghĩa rằng tâm bất sinh là định hướng tinh thần của người tu tập, có liên quan ít nhiều, hoặc rất nhiều, đến việc khu biệt tính chất cảm hứng, cảm xúc của người “làm ra” thơ thiền, và “gây sự” rõ ràng đến sự tinh tế của công việc sáng tạo và quá trình cảm nhận thơ thiền. Tâm bất sinh tạo ra một trường tâm linh hay một dòng chảy hướng tâm của các thứ cảm xúc và trạng thái như: tịch lặng, đơn độc, thanh tịnh, an định. Từ trong dòng chảy hướng tâm đó, làm thế nào mà những cảm hứng “sáng tạo nghệ thuật” có thể đột phá? Câu trả lời hẳn không đơn giản chút nào.
Tiếp cận kinh điển Phật giáo, người đọc sẽ quen thuộc với những khái niệm như: xứ, trời, cõi, phương, châu, bờ bến… như là những con đường chứng nghiệm và tái sinh. Các không gian ấy là sự phóng chiếu của tâm vào vật, sự nối dài không ngừng tinh thần con người vào tinh thần vũ trụ. Những xứ, cõi, phương, châu, bờ… ấy đã tạo nên một thế giới rất tịch lặng không ngừng chuyển động, tràn ngập giải thoát mà vẫn chứa đầy sự sống … Cảm hứng sáng tạo, do đó, vẫn có đời sống riêng của nó trong thế giới của sự thanh vắng. “Bất sinh” không phải luật pháp chết chóc của tâm hồn đa dục, mà trái lại, nó là điểm dừng đầy quí giá cho một sinh lực sáng tạo mới được tuôn chảy sau tất cả những thăng trầm dồn nén. Cũng giống như tôn chỉ “bất lập văn tự” của Bồ Đề Đạt Ma, suối nguồn của tư tưởng thiền tông Trung Hoa, sự “dập tắt” ngôn từ đó chính là để dự phóng một sự “sinh tạo” mới về ngôn từ. Thế nên, “vô ngôn đốn ngộ” là nguyên tắc và biểu tượng tâm linh của thiền, mà sáng tác, sáng tạo, truyền bá ngữ lục, siêng năng chuyển ngữ, giữ gìn thiền ngữ… cũng là đời sống của thiền.
Nhiều bài thơ do các thiền sư Nhật Bản, Hàn Quốc viết ra có màu sắc tình dục, khi đó, nó có còn là thơ thiền không? Dường như chữ thiền đứng sau chữ thơ trong cụm “thơ thiền” đã mở ra những ý tưởng “liều lĩnh” cho câu trả lời. Đúng, nó là thơ thiền. Vậy ý nghĩa trang nghiêm của nó cùng với sứ mệnh truyền bá uy lực tâm linh Phật giáo sẽ nằm ở đâu trong những tứ thơ diễm lệ nói về kỹ nữ, du nữ, về những mối tình thầm lặng não nề, những oan khiên nơi trần giới, những hoan lạc lẽ ra phải từ giã lâu rồi? …
Phải chăng có một trạng thái, một thứ triết học, một từ, để giải thích được hiện tượng này: tự do.
Tâm bất sinh là tự do cuối cùng. Tinh thần tự do trong thiền tông là một ẩn số triết học, tôn giáo, và giờ đây, còn liên quan đến cả mỹ học. Tự do ấy, từ đâu đến, chuyển hóa cái gì, mở ra cánh cửa nào, nó có chia sẻ điều gì với những quan niệm tự do sáng tạo nghệ thuật đến từ một thế giới đầy luận lý là phương Tây không, nó quan hệ ra sao với tinh thần nhẫn nhục, lý tưởng “diệt dục”, “xuất thế gian” của Phật giáo nguyên thủy?... Những câu hỏi này sẽ còn đi theo suy tư mỹ học của chúng ta rất lâu, cho đến khi có thể giải thích một cách cặn kẽ.
Chỉ có một điều cần nhấn mạnh bây giờ rằng, tự do là một thứ năng lượng đặc biệt đã chuyển hóa các nguyên tắc tôn giáo thành những trạng thái sáng tạo nhân bản.
Vậy thơ thiền tồn tại những cảm xúc gắn bó với tinh thần thế tục ra sao?
- Niềm vui ngộ đạo
- Tâm sự hành hương
- Lòng yêu thiên nhiên - an trú hay “dan díu”?
- Nỗi buồn trong thơ thiền
- Đỗ Tùng Bách, Thơ thiền Đường Tống, NXb Đồng Nai, 2000.
- Chang Chen-chi, Thiền đạo tu tập (Như Hạnh dịch), Kinh Thi xuất bản, Sài Gòn, 1972.
- Giản Chi (tuyển dịch và chú thích), Thơ Vương Duy, NXB Văn hóa thông tin, 1993.
- Nhật Chiêu, Basho và thơ Haiku, NXB Văn học, Hà Nội, 1994.
- Ngô Di, Thiền và Lão Trang, NXB Hạnh phúc, Sài Gòn, 1973.
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Vài chú giải về thiền đốn ngộ, Thiện tri thức xuất bản, 2001.
- T.Suzuki, Thiền luận, quyển thượng, quyển trung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
- Thơ văn Lý Trần, tập 1, Viện Văn học, NXB Khoa học xã hội, 1977.
- T. Suzuki, Zen and Japanese literature, Princeton University Press, 1970.
- Kenneth Kraft, Zen : tradition and transition, Grove Press, New York, 1988.
- Harold E. McCarthy, Poetry, metaphysics and the spirit of Zen, Philosophy East and West, Vol.1, No.1, (Apr., 1951), 16-34.
- Lý Miễu, Thiền thi tam bách thủ, Cát Lâm văn sử liệu xuất bản, Trung Quốc, 1996.
- Lâm Tương Hoa, Thiền tông dữ Tống đại thi học, Văn Tân xuất bản xã hữu hạn công ty, 2002.